Lúa gạo hữu cơ là loại lúa gạo được trồng theo phương pháp tự nhiên, không sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và sức khỏe người tiêu dùng. Lúa gạo hữu cơ có giá trị dinh dưỡng cao, chứa nhiều calo, đường, đạm, chất béo, chất khoáng và vitamin.
Gạo hữu cơ cũng có giá trị kinh tế cao, được trồng rộng rãi trong các quốc gia như Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Việt Nam. Tại Việt Nam, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những vùng trồng lúa gạo hữu cơ tiêu biểu, với nhiều mô hình canh tác khác nhau, như lúa – tôm, lúa – cá, lúa – rau, lúa – hoa. Bài viết này sẽ giới thiệu về các mô hình canh tác, các giống lúa, cách trồng và chăm sóc, giá trị kinh tế của lúa gạo hữu cơ ở ĐBSCL.
Các mô hình canh tác lúa gạo hữu cơ ở ĐBSCL
Để trồng lúa gạo hữu cơ, nông dân ở ĐBSCL đã áp dụng nhiều mô hình canh tác khác nhau, tùy theo điều kiện địa lý, khí hậu, thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Một số mô hình canh tác phổ biến ở ĐBSCL là:
Mô hình lúa – tôm
Đây là mô hình canh tác kết hợp giữa lúa gạo hữu cơ và tôm sú, tận dụng nguồn nước mặn từ biển vào mùa khô và nguồn nước ngọt từ sông vào mùa mưa. Mô hình này giúp tăng hiệu quả sử dụng đất, giảm chi phí đầu tư, tăng thu nhập cho nông dân, bảo vệ môi trường và duy trì đa dạng sinh học.
Mô hình lúa – cá
Đây là mô hình canh tác kết hợp giữa lúa gạo hữu cơ và cá tra, cá rô, cá lóc, cá bống… tận dụng nguồn nước ngọt từ sông và kênh rạch. Mô hình này giúp tăng năng suất và chất lượng lúa gạo, giảm sự phụ thuộc vào phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, tăng thu nhập cho nông dân, bảo vệ môi trường và duy trì đa dạng sinh học.
Mô hình lúa – rau
Đây là mô hình canh tác kết hợp giữa lúa gạo hữu cơ và các loại rau màu, như rau muống, rau ngót, rau cải, rau dền… tận dụng nguồn nước ngọt từ sông và kênh rạch. Mô hình này giúp tăng năng suất và chất lượng lúa gạo, giảm sự phụ thuộc vào phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, tăng thu nhập cho nông dân, bảo vệ môi trường và duy trì đa dạng sinh học.
Mô hình lúa – hoa
Đây là mô hình canh tác kết hợp giữa lúa gạo hữu cơ và các loại hoa, như hoa hồng, hoa cúc, hoa ly, hoa lan… tận dụng nguồn nước ngọt từ sông và kênh rạch. Mô hình này giúp tăng năng suất và chất lượng lúa gạo, giảm sự phụ thuộc vào phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, tăng thu nhập cho nông dân, bảo vệ môi trường và duy trì đa dạng sinh học.

Các giống lúa gạo hữu cơ được sử dụng ở ĐBSCL
Để trồng lúa gạo hữu cơ, nông dân ở ĐBSCL đã sử dụng nhiều giống lúa khác nhau, tùy theo điều kiện địa lý, khí hậu, thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Một số giống lúa gạo hữu cơ được sử dụng phổ biến ở ĐBSCL là:

Giống lúa ST24
Đây là giống lúa gạo hữu cơ được phát triển bởi nhà khoa học Hồ Quang Cua, có thời gian sinh trưởng ngắn, chỉ 90 – 100 ngày, năng suất cao, đạt 6 – 7 tấn/ha, chất lượng gạo ngon, hạt dài, thơm, mềm, dẻo, ít xơ, ít cám, chứa nhiều dinh dưỡng, có thể chế biến thành nhiều món ăn.
Giống lúa ST25
Đây là giống lúa gạo hữu cơ được phát triển bởi nhà khoa học Hồ Quang Cua, có thời gian sinh trưởng ngắn, chỉ 90 – 100 ngày, năng suất cao, đạt 6 – 7 tấn/ha, chất lượng gạo ngon, hạt dài, thơm, mềm, dẻo, ít xơ, ít cám, chứa nhiều dinh dưỡng, có thể chế biến thành nhiều món ăn. Giống lúa này đã đạt giải thưởng lúa gạo ngon nhất thế giới năm 2019.
Giống lúa OM4900
Đây là giống lúa gạo hữu cơ được phát triển bởi Viện Lúa miền Nam, có thời gian sinh trưởng ngắn, chỉ 85 – 90 ngày, năng suất cao, đạt 7 – 8 tấn/ha, chất lượng gạo ngon, hạt dài, thơm, mềm, dẻo, ít xơ, ít cám, chứa nhiều dinh dưỡng, có thể chế biến thành nhiều món ăn.
Giống lúa OM5451
Đây là giống lúa gạo hữu cơ được phát triển bởi Viện Lúa miền Nam, có thời gian sinh trưởng ngắn, chỉ 85 – 90 ngày, năng suất cao, đạt 7 – 8 tấn/ha, chất lượng gạo ngon, hạt dài, thơm, mềm, dẻo, ít xơ, ít cám, chứa nhiều dinh dưỡng, có thể chế biến thành nhiều món ăn. Giống lúa này có khả năng chống chịu khá đối với rầy nâu, đạo ôn, đẻ nhánh mạnh, chịu phèn, mặn khá, cứng cây, thích nghi rộng.
Giống lúa OM6976
Đây là giống lúa gạo hữu cơ được phát triển bởi Viện Lúa miền Nam, có thời gian sinh trưởng ngắn, chỉ 85 – 90 ngày, năng suất cao, đạt 7 – 8 tấn/ha, chất lượng gạo ngon, hạt dài, thơm, mềm, dẻo, ít xơ, ít cám, chứa nhiều dinh dưỡng, có thể chế biến thành nhiều món ăn. Giống lúa này có khả năng chống chịu tốt đối với rầy nâu, đạo ôn, đẻ nhánh mạnh, chịu phèn, mặn tốt, cứng cây, thích nghi rộng. Giống lúa này còn có hàm lượng sắt trong gạo cao, đạt 6,9 – 7,0mg/kg gạo trắng.
Cách trồng và chăm sóc lúa gạo hữu cơ
Đất trồng lúa gạo hữu cơ cần được cày xới kỹ, bón phân chuồng hoai mục, phân xanh để cải tạo đất. Mục đích của việc chuẩn bị đất là tạo môi trường thuận lợi cho cây lúa phát triển, tăng độ phì nhiêu của đất, cung cấp dinh dưỡng cho cây lúa.
Cụ thể, cần thực hiện các bước sau:
- Chuẩn bị đất: Chọn đất tốt, đất cát pha, thịt nhẹ, cày bừa kỹ, cày xới đất 2 lần, lần đầu cày sâu 25-30 cm, lần thứ hai cày nông 10-15 cm, loại bỏ cỏ dại. Chia luống rộng 1,2 – 1,5 m. Bón lót 6 tạ phân chuồng hoai mục cho 1.000 m2. Sau khi bón, dùng trang phẳng, vùi phân sâu trong đất bùn 3 – 5 cm.
- Gieo sạ: Chọn giống lúa hữu cơ phù hợp với điều kiện địa phương, như ST24, ST25, OM4900, OM5451, OM6976… Ngâm hạt giống trong nước ấm khoảng 30 phút, sau đó để ráo nước. Gieo sạ trên đất ẩm, mật độ khoảng 100 – 120 kg/ha. Sau khi gieo, dùng cào nhẹ để che đất lên hạt giống.
- Bón phân: Bón phân hữu cơ, vi sinh an toàn, không sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học. Bón phân định kỳ theo từng giai đoạn phát triển của cây lúa. Bón phân đầu khoảng 15 – 20 ngày sau khi gieo sạ, bón phân thúc đẩy ra bông khoảng 40 – 45 ngày sau khi gieo sạ, bón phân kích thích đậu trái khoảng 55 – 60 ngày sau khi gieo sạ.
- Quản lý nước: Đảm bảo đủ nước cho cây lúa, không để đất khô cứng hoặc ngập úng. Tùy theo điều kiện thời tiết, thay đổi lượng nước cho phù hợp. Trong giai đoạn đẻ nhánh, nước sâu khoảng 3 – 5 cm. Trong giai đoạn ra bông, nước sâu khoảng 5 – 7 cm. Trong giai đoạn chín, nước sâu khoảng 2 – 3 cm.
- Phòng trừ sâu bệnh: Sử dụng các biện pháp tự nhiên, như luân canh, trồng xen canh, trồng các loại cây có tác dụng đuổi sâu, như cải, hành, tỏi, sả… Sử dụng các loại vi sinh vật có lợi, như trùng chỉ thực vật, vi khuẩn Bacillus thuringiensis, nấm Metarhizium anisopliae… để kiểm soát sâu bệnh. Không sử dụng thuốc trừ sâu hóa học.
- Thu hoạch: Thu hoạch lúa khi hạt chín vàng, độ ẩm khoảng 20 – 25%. Cắt lúa bằng tay hoặc máy, để ráo nước trên ruộng. Sau đó, đem lúa về sàng lọc, thái, sấy khô, đóng bao. Bảo quản lúa ở nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ẩm mốc, chuột bọ.
Giới thiệu giá trị kinh tế của lúa gạo hữu cơ
Sản lượng
Lúa gạo hữu cơ có năng suất cao, đạt từ 6 đến 8 tấn/ha, tương đương hoặc cao hơn so với lúa gạo thông thường. Lúa gạo hữu cơ được trồng rộng rãi ở nhiều quốc gia, nhưng chủ yếu tập trung ở Châu Á, đặc biệt là Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Philippines… Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), sản lượng sản xuất gạo toàn cầu năm 2021 ước khoảng 511,7 triệu tấn, tăng 0,9% so với năm ngoái. Trong đó, Ấn Độ là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới, với 120,3 triệu tấn, chiếm 23,5% tổng sản lượng, tiếp theo là Trung Quốc với 148,5 triệu tấn, chiếm 29% tổng sản lượng. Việt Nam là nước sản xuất gạo thứ năm thế giới, với 28,5 triệu tấn, chiếm 5,6% tổng sản lượng.

Giá bán
Lúa gạo hữu cơ có giá bán cao hơn so với lúa gạo thông thường, do chất lượng gạo ngon, hạt dài, thơm, mềm, dẻo, ít xơ, ít cám, chứa nhiều dinh dưỡng, có thể chế biến thành nhiều món ăn. Ngoài ra, lúa gạo hữu cơ còn có giá trị kinh tế cao do được trồng theo phương pháp tự nhiên, không sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và sức khỏe người tiêu dùng. Theo số liệu của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá bán gạo hữu cơ của HTX là 30.000 đồng/kg gạo, cao hơn so với sản xuất thông thường gấp 2 lần. Theo Reuters, giá gạo 5% tấm của Việt Nam được báo ở mức 395 – 400 USD/tấn, mức thấp nhất kể tuần tính đến ngày 26/8.
Thị trường tiêu thụ
Lúa gạo hữu cơ có thị trường tiêu thụ rộng lớn, không chỉ ở trong nước mà còn ở nhiều quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập cao, như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu… Theo số liệu của USDA, lượng tiêu thụ gạo thế giới năm 2021 đạt 518,9 triệu tấn, tăng 1,6% so với 2020. Trong đó, Trung Quốc là nước tiêu thụ gạo nhiều nhất thế giới, với 146,5 triệu tấn, chiếm 28,2% tổng lượng tiêu thụ, tiếp theo là Ấn Độ với 100,5 triệu tấn, chiếm 19,4% tổng lượng tiêu thụ.
Xuất khẩu
Lúa gạo hữu cơ có tiềm năng xuất khẩu cao, do nhu cầu về gạo sạch, an toàn, bảo vệ môi trường ngày càng tăng trên thế giới. Theo số liệu của USDA, lượng xuất khẩu gạo thế giới năm 2021 ước đạt 47,4 triệu tấn, tăng 1,3% so với năm ngoái. Trong đó, Ấn Độ là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, với 16,5 triệu tấn, chiếm 34,8% tổng lượng xuất khẩu, tiếp theo là Thái Lan với 6,5 triệu tấn, chiếm 13,7% tổng lượng xuất khẩu. Việt Nam là nước xuất khẩu gạo thứ ba thế giới, với 6,4 triệu tấn, chiếm 13,5% tổng lượng xuất khẩu.

Kết Luận
Lúa gạo hữu cơ ở ĐBSCL không chỉ là một loại lương thực quan trọng, mà còn là một loại nông sản có tiềm năng phát triển cao, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân, bảo vệ môi trường, duy trì đa dạng sinh học, nâng cao chất lượng cuộc sống. Lúa gạo hữu cơ ở ĐBSCL cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, được nhiều thị trường trên thế giới ưa chuộng, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập cao, như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu….
Để phát triển lúa gạo hữu cơ ở ĐBSCL, cần có sự đồng thuận và hợp tác của các cơ quan quản lý, các tổ chức nghiên cứu, các doanh nghiệp, các hợp tác xã và các nông dân. Cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích, đảm bảo cho việc trồng, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu lúa gạo hữu cơ. Cần có những công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về lợi ích của canh tác hữu cơ. Cần có những hành động cụ thể, thiết thực, hiệu quả để bảo vệ môi trường, duy trì đa dạng sinh học, phòng chống biến đổi khí hậu.
Lúa gạo hữu cơ ở ĐBSCL là một nguồn tài nguyên quý giá, là một cơ hội vàng, là một thách thức lớn. Chúng ta hãy cùng nhau nắm bắt, khai thác, phát huy và bảo vệ, để góp phần xây dựng một nền nông nghiệp bền vững, một nền kinh tế phát triển, một xã hội hạnh phúc. Nó không chỉ là một loại lương thực, một thương hiệu, mà còn là một sứ mệnh, một trách nhiệm, một tình yêu.